Khu vực Nam Trung Bộ còn vô vàn tiềm năng du lịch chưa được khai phá và cần được phát triển đồng bộ, chuyên nghiệp nhằm nâng tầm du lịch địa phương. Mình tin rằng câu chuyện của các thương hiệu quốc tế như Zannier, Minor, Fusion đầu tư và Quy Nhơn Phú Yên chỉ là phần khởi đầu cho hành trình cất cánh của du lịch khu vực Phú Yên, Bình Định. Bằng chứng là một loạt thương hiệu lớn như Mandarin Oriental, Hilton, Banyan Tree đều đang nhăm nhe điểm đến này.

Hành trình kết nối điểm đến của Vietage train và Zannier Hotels Bāi San Hô hay Anantara Quy Nhơn là ví dụ điển hình cho việc tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm giá trị điểm đến, khẳng định đẳng cấp du lịch cao cấp của Việt Nam.

Mời các bạn đọc bài viết của nhà báo Ben Richards trên tạp chí lừng danh Conde Nast Traveller, nơi a gọi Zannier Hotels Bãi San Hô “might just be the most beautiful property in Vietnam”, giới thiệu điểm đến độc đáo này nhé.

 

HÀNH TRÌNH TÀU

Hành trình trên toa tàu sang trọng mới này là cách tốt nhất để ngắm nhìn trái tim Việt Nam

      Tôi lang thang trên sân ga Đà Nẵng. Một cặp máy bay chiến đấu được sơn màu ngọc lam kỳ lạ đang gầm rú trên đầu, xé toạc bầu trời bằng tiếng nổ siêu thanh của chúng. Một người bán hàng gọi tôi bằng tiếng Anh, “Chips, cookies, snack!” Tôi lắc đầu và băng qua đường ray khi các đại gia đình kéo những chiếc vali có bánh xe trên mặt đất gồ ghề. Tôi đi bộ về phía tàu và lại cảm thấy mình như một du khách ba lô, tự do một cách thú vị.

     Tuyến đường sắt Bắc Nam này chạy gần như suốt chiều dài gầy guộc của Việt Nam. Trong những thập kỷ gần đây, nó đã trở thành một cách ngày càng phổ biến để khách du lịch đến thăm đất nước. Đường hoàn thành năm 1936, dưới thời Pháp thuộc; chỉ 20 năm sau, khi chiến tranh nổ ra giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, nó trở thành con đường tiếp tế quan trọng để miền Bắc Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Trung Quốc và Liên Xô, đồng minh của họ ở miền bắc. Đối với kẻ thù, các đường ray cung cấp một mục tiêu dễ dàng.

       Khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 và Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, nỗ lực khôi phục tuyến đường sắt này là một cách để khởi động nền kinh tế quốc gia và thể hiện năng lực kỹ thuật của đất nước. Điều quan trọng là nó cũng nói về sự chữa lành. Đến cuối năm 1976, Việt Nam đã sửa chữa hàng trăm cây cầu, hàng chục đường hầm và hơn 150 nhà ga. Chuyến tàu—nối Hà Nội ở phía Bắc với Thành phố Hồ Chí Minh ở phía Nam—được đặt tên là Tàu tốc hành Thống Nhất. Đây là chiến thắng.

       Tuyến đường sắt Bắc Nam này chạy gần như suốt chiều dài gầy guộc của Việt Nam. Trong những thập kỷ gần đây, nó đã trở thành một cách ngày càng phổ biến để khách du lịch khám phá đất nước. Đường hoàn thành vào năm 1936, dưới thời Pháp thuộc; Chỉ 20 năm sau, khi chiến tranh bùng nổ giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, nó trở thành con đường tiếp tế quan trọng để miền Bắc Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Trung Quốc và Liên Xô, đồng minh của họ ở đó. miền bắc. Đối mặt với kẻ thù, các đường ray cung cấp một mục tiêu dễ dàng.

        Làm việc với tư cách là phóng viên trong khu vực trong nhiều năm, tôi đã lên chuyến tàu này nhiều lần theo cả hai hướng - đôi khi có một bến, đôi khi bằng vé “ghế cứng”, vì giá vé giúp bạn có một chỗ ngồi trên ghế gỗ là gọi điện. Tôi yêu chuyến hành trình này vào cái ngày không có điều hòa lạnh giá, cửa sổ trượt mở, giữa các toa có những ấm samovar nóng sủi bọt, và những người bảo vệ mặc trang phục lộng lẫy chào các đoàn tàu khi họ rời ga.

        Khoảng thời gian này, tôi đang tham gia The Vietage. Sản phẩm trí tuệ của thương hiệu khách sạn sang trọng Anantara, đó là một toa đơn đầy phong cách được liên kết với phần cuối của chuyến tàu cho đoạn đường dài 200 dặm giữa các thành phố Đà Nẵng và Quy Nhơn. Vietage kết nối hai khách sạn của thương hiệu là Anantara Hoi An Resort (cách Đà Nẵng khoảng 40 phút về phía nam) và Anantara Quy Nhon Villas. Công ty đã mất bốn năm dài để sắp xếp các giấy phép cần thiết và hiện thực hóa ý tưởng ban đầu.

       Trước khi lên tàu, tôi dành hai ngày ở Hội An, một trong những nơi nghỉ dưỡng yêu thích của tôi ở Đông Nam Á, liên lạc với những người bạn cũ và làm quen với những người bạn mới. Đó là một thị trấn ven sông xinh đẹp, rợp bóng cây với nhiều quán cà phê và phòng trưng bày nghệ thuật, nơi đã thu hút một cộng đồng người nước ngoài đông đảo. Khi ở đó, tôi kết nối với nghệ sĩ Nhật Bản Saeko Ando, người mà tôi gặp qua một người quen. Cô sử dụng sơn mài tự nhiên trong những bức tranh đầy tâm trạng, lấy cảm hứng từ thiên nhiên, mượn một kỹ thuật cổ xưa của Việt Nam. Ando mời tôi ăn tối với cô ấy và bạn của cô ấy là Elka Ray, một tiểu thuyết gia người Canada sống bên bờ biển, trên một con đường quanh co không đủ rộng để một chiếc xe tuk-tuk có thể lách qua. Cả hai người phụ nữ đã sống ở Việt Nam hơn 20 năm, bị quyến rũ bởi nhịp sống chậm rãi. “Việt Nam là nhà,” Ray nói, “nhưng tôi sẽ không ở lại nếu nó trở nên quá bận rộn, quá ồn ào, quá nhiều.”

Cuộc Sống Ven Sông Cửu Long

         Sáng hôm sau, tôi lang thang vào phòng trưng bày của nhiếp ảnh gia mỹ thuật người Pháp có tên duy nhất là Réhahn. Anh đã dành cả thập kỷ qua để chụp ảnh các nhóm dân tộc Việt Nam, trong đó có hơn 50 nhóm, bao gồm Dao, Nùng, H'Mông và La Chí, trên khắp đất nước. Réhahn thành lập một bảo tàng ở Hội An trưng bày dự án này. Anh ấy hiện đang bận rộn ghi lại các nghệ nhân truyền thống, những người mà tay nghề và kỹ năng mà anh ấy lo sợ sẽ biến mất trong một thế hệ. Người thợ chụp ảnh giới thiệu tôi với người thợ làm đèn lồng 90 tuổi Huỳnh Văn Ba, người nói với tôi rằng đêm nào ông cũng mơ về những mẫu đèn mới. Khi tôi hỏi anh ấy về việc truyền lại các kỹ năng của mình, anh ấy nhìn tôi chằm chằm với đôi mắt trong veo và nói rằng các con của anh ấy không hứng thú lắm. Réhahn cũng sắp xếp để tôi đến thăm cụ Bùi Thị Xong, một bà lão đánh cá ngoài tám mươi tuổi, người đưa tôi đi thuyền trên sông, đứng trên mũi thuyền khi bà chèo một mái chèo thẳng đứng. Cô ấy nói đùa rằng trong khi thính giác và thị lực của cô ấy bị suy giảm và cô ấy không còn chiếc răng nào, cô ấy vẫn có thể chèo thuyền!

       Sáng hôm sau, tôi thu dọn hành lý và hai nhân viên ở Anantara chở tôi đến ga xe lửa ở Đà Nẵng, nằm ngay dưới vĩ tuyến 17 và từng là ranh giới giữa Bắc và Nam Việt Nam. Nhìn từ bên ngoài, toa xe của The Vietage trông giống như mọi toa khác, với màu sơn sọc đỏ-trắng-xanh. Nhưng khi tôi bước vào bên trong qua những cánh cửa thép nặng nề, tôi thấy có nửa tá ngăn với những chiếc ghế bành bọc nệm, ánh sáng mặt trời lọt qua những lỗ nhỏ hình lục giác của màn mây. Quang, người quản lý tàu, chỉ cho tôi chỗ ngồi và gợi ý một ly cà phê đá để đi cùng với bánh sừng bò nóng hổi và nho khô. Có thực đơn bữa trưa, Wi-Fi tốc độ cao, chăn mềm và gối kê cổ.

          Khi chúng tôi ra khỏi nhà ga, một người bảo vệ vẫy cờ một cách giận dữ, và tôi quan sát những người bán hàng di chuyển xe đẩy của họ ra khỏi đường. Từ vị trí thuận lợi được nâng niu của tôi, chúng tôi vượt qua những toa tàu rỉ sét, những ống khói và lá cờ Tổ quốc phổ biến với ngôi sao vàng năm cánh phấp phới màu đỏ. Khi đô thị mở rộng, cảnh quan biến thành những cánh đồng lúa xanh mướt màu diệp lục, những ngọn giáo thẳng đứng đồ họa đánh lừa thị giác của tôi khi chúng tôi lướt qua. Những người nông dân với chiếc nón lá đã tạo nên một hình bóng thuần túy của Việt Nam, trồng những chồi non bằng tay—những công việc nặng nhọc. Bên phải tôi là những ngọn núi có rừng, một số bị cắt làm đôi do hoạt động khai thác; bên trái tôi là biển.

          Chúng tôi đang đi qua khu vực của Đế chế Chăm. Vào thời hoàng kim, nó là đối thủ chính của người Khmer. Có những bức phù điêu tại một ngôi đền Angkor ở Campuchia mô tả trận hải chiến vào thế kỷ 12 giữa hai bên. Người Chăm là những nhà hàng hải đáng gờm và chỉ huy một mạng lưới thương mại hàng hải từ Indonesia đến Nhật Bản. Các nhà khảo cổ đã xác định được các thành quách và đền thờ dọc theo bờ biển Việt Nam và khắp các vùng núi của Lào và Campuchia.

           Trong vài giờ tới, chúng tôi băng qua những con sông trong đó những chiếc xà lan chở gạo chen lấn với những người vạn đò. Tôi nhìn ngư dân tung lưới. Có những cái ao nhân tạo với những đàn vịt xúm xít dưới bóng những cành cây nhô ra và những cánh đồng sen rợp bóng bông súng, những cánh hoa hồng rực rỡ nhô lên khỏi bùn. Chúng tôi cũng di chuyển qua các thị trấn với những ngôi nhà buôn bán bằng bê tông và những đống rác gia đình đang cháy âm ỉ ở sân sau. Tại các điểm giao cắt với đường sắt, tôi nghiên cứu tình hình giao thông mà chúng ta đang kìm hãm: xe máy quá tải, xe tải khổng lồ kéo container vận chuyển, xe khách hai tầng. Tốc độ tối đa của tàu là khoảng 45 dặm một giờ. “Thống nhất, vâng. Express, no,” một người địa phương nói, ánh mắt lấp lánh.

           Vào một thời điểm nào đó giữa bữa sáng và bữa trưa ba món, Tien, một tiếp viên khác, hỏi tôi có muốn mát-xa vai trong khoang điều trị không. Sau khi điều trị xong những khúc mắc ở cổ, tôi đi đến quầy bar hình móng ngựa và giữ thăng bằng trên một chiếc ghế đẩu cao trong khi cuộc sống nông thôn trôi qua: những cánh đồng ngô đầy lông, một số bỏ hoang, một số khác bị trâu cày. Có những cụm bia mộ, có cái lẻ loi giữa đồng lúa.

          Sau bữa trưa, tàu cập cảng Quy Nhơn. Đây là theo như The Vietage đi. Chỉ cần lái xe một đoạn ngắn là đến Khu biệt thự Quy Nhơn bên bờ biển của Anantara cũng như Bãi San Hô, một khách sạn mà tập đoàn khách sạn người Pháp Zannier đã khai trương cách đây hai năm trên một vịnh hình vỏ sò với bãi biển dài đầy cát. Cả hai thương hiệu khách sạn đều đang đặt cược vào khu vực mới nổi này, được nhiều người dân địa phương coi là dải bờ biển thanh bình nhất của đất nước họ.

          Tôi chia thời gian của mình ở Quy Nhơn giữa hai khách sạn và tôi nhờ những nhân viên hướng dẫn khách xuất sắc ở cả hai nơi để tìm hiểu về vùng đất. Một ngày nọ, lái xe vòng quanh với hướng dẫn viên do Anantara sắp xếp, tôi đến thăm những di tích Chăm đầy ấn tượng, bao gồm Dương Long, một bộ ba tháp hình hoa sen hướng đông ít được biết đến; cái trung tâm cao gần 80 feet. Khi chúng tôi đến, cổng đã khóa và không có ai xung quanh; người hướng dẫn của tôi gọi người bảo vệ sống gần đó đến để cho chúng tôi vào. Khi đã vào trong, tôi đi lang thang quanh khu đất trống, xem xét những công trình gạch đỏ phủ đầy rêu và nhìn lên những cái cây mọc lên từ những vết nứt của tòa tháp. Sau đó, tôi gặp gỡ các nghệ nhân truyền thống, bao gồm những người thợ làm nón thế hệ thứ tư và một gia đình đan lưới bẫy cá bằng mây. Một ngày khác, tôi đi thuyền ở khách sạn Bãi San Hô xuôi theo bờ biển, thả neo để lặn với ống thở giữa các rạn san hô, trước khi lái xe vào các đầm phá được bảo vệ, nơi ngư dân sống trên phao và nuôi tôm sú.

         Vào buổi sáng cuối cùng của tôi, tôi đến thăm một thầy bói nổi tiếng. Cô ấy nói với tôi rằng tôi là khách hàng thứ 10 của cô ấy rồi. Cô ấy ngồi khoanh chân bên cạnh một bàn thờ được trang trí bằng những bức tượng nhỏ, hai chiếc tivi, một ngọn nến lễ hội Heineken và một lễ vật bánh quy Oreo. Tôi ngồi đối diện với cô ấy trên tấm thảm nhựa. Cô ấy chia một bộ bài và giải thích các lựa chọn của tôi trước khi xem chỉ tay của tôi: Tôi nên mong đợi một cuộc sống lâu dài, nhưng tôi đã có một năm tồi tệ. (“Nó có thể trở nên tốt hơn,” cô ấy nhanh chóng thêm vào). Cô ấy cảnh báo tôi không nên đưa ra bất kỳ quyết định quan trọng nào có thể thay đổi cuộc đời. “Hãy tiếp tục đi,” cô ấy nói, khi tôi quay đi. “Bạn sẽ luôn được đi du lịch an toàn.”

Tất cả trên tàu

          Anantara's The Vietage thực hiện hai chuyến hàng ngày. Nó khởi hành từ ga Đà Nẵng, khoảng 20 dặm về phía bắc của thị trấn ven sông Hội An, mỗi sáng lúc 8 giờ và đến ga Diêu Trì, ngay bên ngoài thị trấn cảng Quy Nhơn, khoảng 2:30 chiều. Buổi tối tàu rời Diêu Trì lúc 18h30. và kéo vào Đà Nẵng ngay sau nửa đêm. Chiếc xe được trang trí đẹp mắt với nhiều mây, gỗ sáng màu và quầy bar bằng đá cẩm thạch bóng bẩy, có sức chứa tối đa 12 hành khách trong sáu phòng riêng, mỗi phòng có hai chỗ ngồi rộng rãi. Trong hành trình buổi tối, các phòng có thể được chuyển đổi thành buồng ngủ. Chuyến đi kéo dài sáu giờ bắt đầu từ $400 một người, một chiều; điều này bao gồm một bữa ăn ba món, đồ uống và mát-xa đầu và vai. Vietage là một cách thú vị để di chuyển giữa các cơ sở ở Hội An và Quy Nhơn của Anantara, nhưng những khách không ở khách sạn cũng có thể mua vé.